Tóm tắt 20 bài văn mẫu các tác phẩm văn học lớp 9
Tổng hợp các tác phẩm văn học lớp 9 gồm 20 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo và củng cố lại kiến thức môn Ngữ Văn lớp 9, cũng như nắm được toàn bộ nội dung chính của các tác phẩm văn học lớp 9.
Qua đó, các em dễ dàng tóm tắt được Truyện người con gái Nam Xương, Truyện Kiều, Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá … Vậy hatienvenicevillas mời các em theo dõi nội dung các tác phẩm văn học lớp 9 chi tiết trong bài viết dưới đây.

1. Chuyện người con gái Nam Xương
Chuyện kể về Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, vừa đẹp người đẹp nết, gả cho Trương Sinh con nhà hào phú nhưng ít học. Chưa bao lâu, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương ở nhà sinh con đầu lòng, chăm sóc chu đáo và lo ma chay cho mẹ chồng như mẹ ruột. Trương Sinh về, nghe con nhỏ nói không rõ ràng, lại có tính hay ghen từ trước, chàng hiểu lầm vợ phản bội, liền không nghe giải thích mà đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương oan không thể giải, liền trẫm mình xuống bến Hoàng Giang, may được Linh Phi cứu giúp làm tiên nữ dưới thủy cung. Sau khi Vũ Nương qua đời, Trương Sinh mới biết, người cha hàng đêm vẫn đến mà con nói là chiếc bóng trên tường nhưng đã quá muộn để nhận ra nỗi oan của vợ, nàng đã không còn nữa. Phan Lang – một người cùng làng, là ân nhân của Linh Phi nay lại được Linh Phi cứu sống. Phan Lang gặp lại Vũ Nương ở thủy cung, nàng đã gặp nhờ Phan gửi cho chồng tín vật. Trương Sinh biết chuyện liền lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang cho vợ, Vũ Nương hiện về trong ngày lập đàn gặp lại hai cha con.

2. Hoàng Lê nhất thống chí
Lê Chiêu Thống sợ uy danh của quân Tây Sơn, sang cầu cứu nhà Thanh. Quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu kéo quân vào Thăng Long. Ngô Văn Sở, tướng của Tây Sơn cho quân lui về núi Tam Điệp để bảo tồn lực lượng và cho quân cấp báo với Nguyễn Huệ. Thuận theo lòng tướng sĩ Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung sau đó tiến quân ra Nghệ An. Ở Nghệ An nhà vua lấy thêm quân mở cuộc duyệt binh lớn, huấn dụ quân sĩ ai nấy đều đồng sức đồng lòng rồi tiến quân ra Bắc. Đến núi Tam Điệp gặp hai tướng Lân, Sở, Ngô Thời Nhiệm bàn kết hoạch sau khi đánh xong quân Thanh, mở tiệc khao quân.
Hẹn với tướng sĩ tối 30 lên đường, ngày 7 Tết tới Thăng Long. Giặc trấn thủ ở đó chưa đánh đã tan vỡ. Toán quân do thám bị bắt sống hết. Nửa đêm ngày mồng 3 Kỉ Dậu bắt đầu tấn công đồn Hạ Hồi quân giặc sợ hãi xin hàng. Sau đó tiếp tục dang thành chữ nhất tiến công đồn Ngọc Hồi, quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, rơi vào kế nghi binh của Tây Sơn, bị dồn xuống đầm vực, bị vùi giày đạp chết hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy quân Tây Sơn kéo vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nghe tin sợ hãi không kịp mặc áo giáp chạy trốn. Vua Lê Chiêu Thống đem hoàng thân quốc thích rời bỏ kinh thành chạy theo quân Thanh đại bại.

3. Phong cách Hồ Chí Minh
Đến với “Phong cách Hồ Chí Minh”, Lê Anh Trà đã cho người đọc thấy được hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh – một con người vừa giản dị vừa thanh cao. Suốt những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, Bác đã đi đến nhiều nơi và được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, cả phương Đông và phương Tây. Chính vì vậy, Người am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới như, văn hóa thế giới sâu sắc. Dù chịu ảnh hưởng của tất cả các nền văn hóa, tiếp thu cái hay cái đẹp nhưng Bác vẫn giữ được những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh cũng là một vị chủ tịch nước có lối sống giản dị. Điều ấy được thể hiện qua ngôi nhà sàn đơn sơ nơi Bác ở, hay trang phục, bữa ăn hằng ngày của Bác. Nhưng chớ có hiểu lầm rằng cách sống của Bác là khác người, là muốn thần thánh hóa bản thân. Mà đó là lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần mà Người đã lựa chọn.
4. Truyện Kiều
Dưới thời Gia Tĩnh triều Minh, ông bà Vương Viên ngoại ở Bắc Kinh sinh được 3 người con, hai gái, một trai:
“Một trai con thứ rót lòng,
Vương Quan là chữ nổi dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”.
Hai chị em Kiều có nhan sắc “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, và đã đến “tuần cập kê”.
Mùa xuân năm ấy, 3 chị em đi thanh minh. Lúc ra về khi bóng chiều đã ngả, họ gặp chàng văn nhân Kim Trọng “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”. Sau cuộc kì ngộ ấy, Kiều và Kim Trọng yêu nhau, hai người thề nguyền “Trăm năm tạc một chữ “đồng” đến xương”. Kim Trọng nhận được thư nhà, chàng phải vội về Liêu Dương “hộ tang” chú.
Sau đó, gia đình Kiều gặp tai biến, bị thằng bán tơ vu oan. Cha và em Kiều bị bắt, bị tra tấn dã man. Bọn sai nha, lũ đầu trâu mặt ngựa ập đến đập phá nhà cửa tan hoang, cướp bóc tài sản “sạch sành sanh vét cho đấy túi tham”. Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá “vàng ngoài bốn trăm” để đút lót cho bọn quan lại, cứu cha và em. Nàng đã trao duyên cho Thúy Vân. Mã Giám Sinh đưa nàng về Lâm Tri. Kiều biết mình bị đẩy vào lầu xanh bèn rút dao tự vẫn nhưng không chết. Nàng được ma Đạm Tiêm báo mộng là phải đến sông Tiền Đường sau này mới hết kiếp đoạn trường. Mụ Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích; mụ thuê Sở Khanh đánh lừa Kiều, đưa nàng đi trốn. Kiều bị Tú Bà giăng bẫy, mắc lừa Sở Khanh. Thúy Kiều bị Tú Bà đánh đập, ép nàng phải sống cuộc đời ô nhục. Tại lầu xanh, Kiều gặp Thúc Sinh, một khách làng chơi giàu có. Thúc Sinh chuộc Kiều ra lầu xanh và lấy Kiều làm vợ lẽ. Hoạn Thư, vợ cả Thúc Sinh lập mưu bắt cóc Thúy Kiều đưa về Vô Tích để đánh ghen.
Kiều bỏ trốn, nương tựa cửa chùa Giác Duyên… Kiều lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh, bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai. Từ Hải, khách biên đình tìm đến gặp Kiều. Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cưới nàng làm vợ “Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”. Một năm sau, Từ Hải đã có 10 vạn tinh binh, rạch đôi sơn hà, lập nên một triều đình “Năm năm hùng cứ một phương hải tần”. Kiều báo ân báo oán.
Hồ Tôn Hiến tổng đốc trọng thần “xảo quyệt lập kế” chiêu an. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Hắn bắt Kiều hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan. Hắn ép gả Kiều cho viên thổ quan. Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Giác Duyên đã cứu sống Kiều và đưa nàng nương nhờ của Phật.
Sau nửa năm về Liêu Dương… Kim Trọng trở lại Bắc Kinh, tìm đến vườn Thúy. Kim Trọng kết duyên với Thúy Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ, được bổ đi làm quan. Cả gia đình tìm đến sông Tiền Đường lập đàn giải oan cho Kiều. Bất ngờ vãi Giác Duyên đi qua và cho biết Kiều còn sống, đang tu ở chùa.
Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng Kim sau 15 năm trời lưu lạc. Trong bữa tiệc đoàn viên, cả nhà ép Kiều phải lấy Kim Trọng, nhưng rồi hai người đã đem tình vợ chồng đổi thành tình bè bạn:
“Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

5. Lục Vân Tiên
Lục Vân Tiên quê ở quận Đông Thành, bề ngoài khôi ngô tuấn tú lại có tài văn võ. Khi nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên liền từ giã thầy xuống núi để tranh tài. Trên đường trở về nhà thăm mẹ, chàng một mình đánh tan bọn cướp do Phong Lai cầm đầu, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Mến mộ tài năng cũng như cảm tạ ân đức, Kiều Nguyệt Nga nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên. Từ biệt Nguyệt Nga, chàng tiếp tục hành trình, gặp gỡ và kết bạn với Hớn Minh – một sĩ tử khác.
Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng của mình lên đường đi thi. Chàng ghé thăm Võ Công – người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Sau đó, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực. Trên đường tới kinh đô lại gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên có tài nên cả hai đem lòng đố kỵ. Vân Tiên nghe tin mẹ mất, chưa kịp vào thi đã bỏ về chịu tang. Dọc đường, chàng bị đau mắt nặng rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Có sự giúp đỡ của giao long và được gia đình Ngư ông cứu nên thoát chết. Sau đó, chàng bị cha con Võ Công hãm hại. Được Du và ông Tiều cứu ra, chàng gặp lại Hớn Minh và được bạn đón về nương náu ở nơi am vắng. Khoa thi năm đó Vương Tử Trực đỗ thủ khoa, trở lại nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công muốn gả con gái nhưng bị Trực cự tuyệt. Võ Công hổ thẹn mà ốm chết.
Kiều Nguyệt Nga vì nghe tin đồn Lục Vân Tiên đã chết nên lập lời thề thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều muốn hỏi nàng cho con trai không được, vô cùng tức giận liền tâu vua bắt Kiều Nguyệt Nga đi cống cho quân giặc Ô Qua. Thuyền đi tới biên giới, nàng liền ôm hình Vân Tiên rồi nhảy xuống sông tử tự. Phật Bà Quan Âm đưa nàng vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi nhưng trớ trêu thay Bùi Kiệm lại đòi lấy nàng làm vợ. Nàng liền tìm cách trốn khỏi nhà họ Bùi.
Lục Vân Tiên được tiên cho thuốc, mắt sáng trở lại rồi trở về nhà thăm cha, đến viếng mộ mẹ và thăm cha Kiều Nguyệt Nga. Khoa thi năm ấy, chàng dự thi và đỗ Trạng nguyên, được cử đi dẹp giặc Ô Qua. Đánh tan quân giặc, nhưng Lục Vân Tiên lạc vào rừng và gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu lại sự tình với vua. Kẻ gian bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp. Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga được đoàn tụ.

6. Làng
Truyện ngắn Làng của Kim Lân kể về thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống giặc Pháp đầy ác liệt, cam go. Truyện để về ông Hai là một con người buộc phải xa làng vì chiến tranh để đến nơi di tản mới. Trong lòng ông vẫn luôn nhớ da diết ngôi làng của mình. Trở về làng ông hay tin ngôi làng đã theo giặc Tây, sự xấu hổ, tủi nhục đến nỗi ông không dám đi đâu ra khỏi nhà nhiều ngày liền. Mọi việc càng tệ hơn khi chủ nhà không cho gia đình ông ở vì ông là ngôi của làng Việt gian. Bỗng ông hãy tin làng Chợ Dầu không hề theo Tây vẫn chiến đấu theo cụ Hồ theo cách mạng, trong lòng ông bỗng vui vẻ trở lại, ông khoe với mọi người khắp nơi rằng Tây đốt sạch làng Chợ Dầu đốt cả nhà của ông trong niềm vui, vui bởi làng vẫn yêu nước, yêu cách mạng. Đó là niềm vui của con người yêu làng, yêu quê hương chân chính.

7. Lặng lẽ Sa pa
Lặng lẽ Sa Pa kể về nhân vật chính là 1 anh thanh niên 27 tuổi sống 1 mình trên đỉnh núi Yên Sơn quanh năm mây mù bao phủ. Công việc chính của anh là công tác khí tượng thuỷ văn kiêm vật lí địa cầu. Công việc ấy đòi hỏi anh phải có tinh thần trách nhiệm cao vì thế 4 năm anh chưa về nhà 1 lần. Ở đây anh luôn thèm người vì vậy anh đã dùng cây chắn ngang đường để mong được tiếp xúc với người qua đường. Trong 1 lần anh làm quen với bác lái xe và nhờ bác giới thiệu anh gặp gỡ với hành khách trên xe trong đó có ông hoa sĩ và cô kĩ sư họ đã lên thăm chỗ anh ở. Trong cuộc gặp gỡ anh thanh niên hào hứng giới thiệu với khách về công việc hằng ngày của mình – những công việc âm thầm nhưng vô cùng có ích cho cuộc sống. Họa sĩ già phát hiện ra phẩm chất đẹp đẽ, cao quý của anh thanh niên nên đã phác họa một bức chân dung. Qua lời kể của anh, các vị khách còn được biết thêm về rất nhiều gương sáng trong lao động, sản xuất, đem hết nhiệt tình phục vụ sự nghiệp xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Sau 1 lúc nói chuyện họ chia tay. Trước khi ra về anh không quên tặng hành khách trên xe 1 làn trứng để ăn trưa. Anh đã để lại ấn tượng tốt trong lòng ông họa sĩ và cô kĩ sư. Ông họa sĩ đã hứa sẽ có dịp quay trở lại thăm anh.

8. Chiếc lược ngà
Truyện ngắn Chiếc lược ngà là lời kể của anh Ba về câu chuyện cảm động về tình cha con sâu sắc giữa ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu xa nhà đi lính khi con gái ông mới tròn một tuổi. Bé Thu chưa từng một lần gặp ba mà chỉ biết về ba qua tấm ảnh ba chụp chung với má. Khi trở về nhà thăm gia đình, vì ông Sáu có vết thẹo trên mặt nên bé Thu không nhận ba. Bé cư xử vô lễ và lạnh nhạt với ông Sáu vì nghĩ đây không phải ba của mình. Cho đến một lần, bé Thu đã hất cái trứng cá trong bữa ăn, khiến ông Sáu tức giận và đánh con – điều làm ông hối hận rất nhiều khi trở về chiến khu. Ngày hôm sau, trước lúc ông Sáu đi, bé Thu đã chạy đến ôm ba và bày tỏ tình cảm với ba. Hai cha con hàn gắn lại tình cảm sau nhiều năm xa cách. Sau này, ở chiến khu, ông Sáu luôn nghĩ về con gái và đã làm chiếc lược ngà với hy vọng sau này khi trở về thăm con, ông sẽ trao nó cho bé Thu. Nhưng không may, ông đã hi sinh khi chưa kịp làm điều ấy. Anh Ba thay ông Sáu trao chiếc lược cho bé Thu, dù ông Sáu đã hy sinh nhưng với anh Ba thì “Dường như chỉ có tình cha con là không thể chết.”
9. Cố hương
Cố hương là câu chuyện về chuyến hành hương của nhân vật tôi sau hơn hai mươi năm xa quê chuyển đi nơi khác làm ăn sinh sống. Sau ngần ấy thời gian trở về quê, nhân vật tôi đau xót nhận ra sự thay đổi theo chiều hướng xấu của quê hương, của những người đồng hương cũ, đặc biệt là người bạn thân thưở nhỏ tên Nhuận Thổ. Nhân vật tôi buồn bã rời quê hương với niềm hi vọng cho một tương lai tươi sáng hơn ở nơi đây. Từ những đổi thay đến đau lòng ấy, Lỗ Tấn đã nhìn thẳng vào sự mục ruỗng của xã hội phong kiến phân chia giai cấp ở Trung Hoa lúc bấy giờ, đồng thời đặt ra vấn đề con đường đi của nông dân và toàn xã hội.
10. Những đứa trẻ
Đoạn trích Những đứa trẻ thuộc chương IX của cuốn tiểu thuyết Thời thơ ấu. Đoạn trích là câu chuyện về tình bạn khăng khít giữa A-li-ô-sa với ba đứa trẻ sống thiếu thốn tình thương bên hàng xóm. Hai gia đình thuộc hai thành phần xã hội khác nhau, gia đình của A-li-ô-sa chỉ là một gia đình bình dân, con ba đứa trẻ kia là con cái nhà giàu, có địa vị cao trong xã hội nên Ốp-xi-an-ni-cốp không cho những đứa trẻ chơi với nhau.
Sống trong cảnh gian khổ, tủi cực nhưng A-li-ô-sa không cảm thấy xa lạ với những đứa trẻ hàng xóm. Qua trò chuyện, A-li-ô-sa biết chúng tuy sống trong cảnh giàu sang nhưng cũng không sung sướng gì (mẹ chết, sống với dì ghẻ, bị bố cấm đoán, đánh đòn…). Hoàn cảnh thiếu tình thương giống nhau khiến A-li-ô-sa thân thiết với mấy đứa trẻ kia.
Tình bạn ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng A-li-ô-sa khiến mấy chục năm sau ông vẫn còn nhớ.
11. Bến quê
Nhân vật chính trong truyện là Nhĩ. Anh Nhĩ từng đi nhiều nơi trên trái đất nhưng cuối cuộc đời lại bị cột chặt vào giường bởi căn bệnh hiểm nghèo. Nhĩ không thể dịch chuyển lấy mười phân trên chiếc giường hẹp kê bên cửa sổ. Cũng chính thời điểm ấy, Nhĩ nhìn qua cửa sổ đã phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc, ngay phía trước cửa sổ nhà anh. Cũng lúc nằm liệt giường, nhận được sự chăm sóc, anh mới cảm nhận hết được nỗi vất vả, sự tảo tần và đức hi sinh cả người vợ. Trong anh bỗng bùng lên khao khát được đặt chân đến bãi bồi bên kia sông Hồng. Nơi ấy gần gũi nhưng đã trở nên xa vời với anh bởi anh biết rằng căn bệnh hiểm nghèo sẽ không bao giờ giúp anh thực hiện được điều ấy.
Anh sai thằng Tuấn – con trai anh, thay anh sang bên kia sông chơi loanh quanh một lúc. Đứa con vâng lời nhưng lại ham vui nên muộn chuyến đò. Từ đó anh chiêm nghiệm ra một quy luật, ý nghĩa cuộc đời một cách sâu sắc: “Con người ta khó tránh khỏi cái vòng vèo, chùng chình, phải dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống.”
Phần cuối truyện kể về việc Nhĩ cố sức đu mình, nhoài người, giơ cánh tay ra ngoài cửa sổ khoát khoát như ra hiệu khẩn thiết cho một người nào đó.
12. Những ngôi sao xa xôi
“Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên xung phong – tổ trinh sát mặt đường – Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang trên cao điểm tại một vùng trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mỹ. Công việc của họ là quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá để san lấp hố bom do địch gây ra, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn không mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh thơi, thơ mộng. Họ rất gắn bó, yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng Phương Định bao hoài niệm, khát khao.
13. Bố của Xi-mông
Câu chuyện về cậu bé mồ côi cha Xi Mông. Cậu luôn bị bạn bè giễu nhại vì cậu chỉ là đứa con không cha. Vì nóng giận, cậu đã đánh nhau với đám bạn ngỗ ngược kia. Nhưng dù vậy, cậu vẫn đau xót vô cùng, và đã nghĩ đến việc kết liễu đời mình. Mọi thứ dần dịu đi nhưng cậu vẫn rất buồn. Bác thợ Phi-Lip đã an ủi cậu trong khoảnh khắc buồn đau đó và nhận làm bố Xi-Mông. Trở lại trường học, cậu tự tin nói với bạn mình rằng mình đã có bố và không mảy may nghe lời giễu nhại.
14. Con chó Bấc
Tác phẩm kể về Bấc – một con chó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã bị nhiều ông chủ độc ác hành hạ. Chỉ riêng Giôn Thooc-tơn (một ông chủ lí tưởng) là người đã có lòng yêu thương đối với nó, và nó tôn thờ Giôn Thooc-tơn. Khi Thooc-tơn chết, nó hoàn toàn dứt bỏ con người, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành một con chó hoang.
15. Bắc Sơn
Bối cảnh vùng nông thôn Vũ Lăng bắt đầu bùng nổ phong trào khởi nghĩa trong quần chúng, nhân dân hưởng ứng mít tinh và ủng hộ cách mạng, nhiều quan lại và lính Tây bị bắt giết. Gia đình cụ Phương có cậu con trai tên Sáng cũng là nhân dân ưu tú nhiệt liệt tham gia trong khi đó, bà cụ Phương, con gái Thơm và chàng rể Ngọc lại thờ ơ, sợ hãi. Sau đó, trung ương cử giáo Thái về lãnh đạo và uốn nắn tư tưởng, định hướng phong trào cho người dân ở Vũ Lăng. Khi Ngọc – tên Việt gian sừng sỏ bị bắt và đưa ra tử hình, cụ Phương xin cho hắn được toàn mạng. Cuối cùng, chính hắn là kẻ dẫn giặc về đàn áp khởi nghĩa, bắn giết đồng bào và bắn cả bố vợ mình. Ngọc sau vụ đó được thưởng rất nhiều tiền, tiếp tục làm tay sai cho giặc dẫn Tây về tìm bắt anh Thái và Cửu – một nông dân người Tày làm cán bộ Cách mạng. Khi hắn dẫn theo tùy tùng đi truy đuổi, cô Thơm đã giấu Thái và Cửu vào trong buồng nhà và cứu thoát họ, cô chính thức giác ngộ cách mạng. Biết được âm mưu đánh úp của chồng và đồng bọn, Thơm băng qua rừng giữa đêm khuya tới căn cứ để tiếp tế và báo tin. Quay về gặp Ngọc, cô bị y bắn trọng thương, y cũng trúng đạn mà chết. Cuộc càn quét của giặc thất bại, Thái và Cửu đưa Thơm về cứu chữa.
16. Đồng chí
Bài thơ Đồng chí kể về cuộc sống và chiến đấu của những người lính cụ Hồ thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Họ xuất thân tù những miền quê nghèo khó, rời bỏ làng quê, gia đình để đến với cách mạng, đến với cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước. Cuộc sống và chiến đấu nơi rừng núi của người lính vô cùng thiếu thốn, gian khổ và hiểm nguy. Thế nhưng, những trở ngại ấy không làm họ sờn lòng. Họ chia sẻ cho nhau những vật chất đơn sơ, cùng chăm sóc nhau khi ốm đau bệnh tật, cùng chiến đấu bên cạnh nhau. Không những thế, họ còn có những giây phút mơ mộng, hướng về cái đẹp trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Chính tình đồng chí ấm áp, thiêng liêng tiếp thêm sức mạnh, giúp họ vượt qua nghịch cảnh, chiến thắng kẻ thù.
17. Mùa xuân nho nhỏ
Nội dung Bài thơ nói về vẻ đẹp mùa xuân với những hình ảnh, màu sắc hài hòa và sinh động. Cảm xúc của tác giả trước cảnh xuân của đất nước Niềm tin của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa xuân vang lên từ sự vất vả khó khăn, Đất nước ta luôn đứng vững trên mọi bầu trời. Lời ước nguyện khiêm nhường, âm thầm và lặng lẽ của tác giả muốn tô điểm và cống hiến cho cuộc đời 1.2. Nghệ thuật Thể thơ năm chữ, gần với các nàn điệu dân ca. Bài thơ giầu nhạc điệu, âm hưởng nhẹ nhàng, thiết tha Kết hợp những hình ảnh tự nhiên, giản dị, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng khái quát. Câu từ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của hình ảnh mùa xuân với các phép tu từ đặc sắc.
18. Bàn về đọc sách
Sách là kho tàng quý báu, cất giữ những di sản tinh thần của nhân loại đã thu lượm, nung nấu mấy ngàn năm qua. Là cột mốc trên con đường tiến hoá của nhân loại. Sách đã ghi chép cô đúc và lưu truyền mọi tri thức, mọi thành tựu mà loài người tìm tòi, tích luỹ được qua từng thời đại.
Đọc sách là con đường tích luỹ, nâng cao vốn tri thức. Là sự chuẩn bị để có thể làm cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn, phát hiện thế giới mới. Đọc sách chính là lấy thành quả của nhân loại trong quá khứ làm xuất phát điểm để phát hiện cái mới của thời đại này.
Trong tình hình hiện nay, sách vở ngày càng nhiều thì việc chọn sách, cách đọc sách cần có hiệu quả.
19. Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
Mở đầu bài nghị luận, tác giả đề ra nhiệm vụ của con người Việt Nam trước mục tiêu của đất nước là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiếp cận nền kinh tế tri thức, thoát khỏi nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.
Tác giả thẳng thắn nêu điểm yếu và điểm mạnh của con người Việt Nam. Điểm mạnh của người Việt là: thông minh, nhạy bén, cần cù, sáng tạo, tỉ mỉ, đoàn kết, đùm bọc trong chống giặc ngoại xâm và thích ứng nhanh. Điểm yếu của người Việt là: thiếu kiến thức cơ bản, kém năng lực thực hành, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ khẩn trương, đố kị trong làm ăn, cuộc sống đời thường, ạn chế trong thói quen nếp nghĩ, kì thị trong kinh doanh, quen bao cấp, thói khôn vặt và ít giữ chữ tín.
Vì vậy, chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới quan trọng nhất là chuẩn bị bản thân con người vì con người là động lực phát triển của lịch sử.
20. Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang
Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện Rô-bin-xơn đã một mình sống ở đảo hoang khoảng mười năm lăm. Rô-bin-xơn đã tự vẽ lại bức chân dung đầy hài hước của mình khi sống trên đảo hoang với cái mũ to tướng, cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, chiếc áo làm bằng tấm da dê, vạt áo dài khoảng lưng chừng hai bắp đùi, quần loe đến đầu gối, quanh người là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê.
Những vật dụng Rô-bin-xơn luôn mang theo bên người, đó là chiếc cưa nhỏ, một chiếc rìu con. Quàng qua vai Rô-bin-xơn là một đai da, hai đầu được buộc lại bằng dây, cuối đai phía dưới cánh tay đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai đều được làm bằng da dê, một túi đựng thuốc,một túi đựng đạn ghém. Rô-bin-xơn đeo gùi sau lưng, khoác súng bên vai và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí, vụng về, nhưng lại rất cần thiết cho Rô-bin-xơn.
Diện mạo của Rô-bin-xơn không đến nỗi đèn cháy nhưng cũng vô cùng kỳ dị với bộ râu dài đến một gang tay, nhưng vì có dao cạo nên chúng được cắt khá gọn, trừ hàng ria ở môi được xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kỳ, cặp ria mép dài đến mức có thể dùng để treo mũ, nhưng chính vì chiều dài và hình dáng kì dị ấy có thể làm cho mọi người phải sợ hãi khi nhìn thấy chúng.
Cảm ơn các em đã đọc các bài tóm tác các phẩm văn học lớp 9. Hy vọng các bài tóm các tác phẩm văn học lớp 9 sẽ bổ sung kiến thứ cho các em trong các bài kiểm tra cũng như thi học kì. chúc các em thành công.
Xêm thêm>>